-
- Tổng tiền thanh toán:
Thấy bánh chưng là thấy Tết!
Tác giả: Biên Tập Viên Ngày đăng: 12/01/2021
“Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh.”
Đó là đôi câu đối quen thuộc khi nói về những nét đặc trưng nhất trong ngày Tết nguyên đán của người Việt từ bao đời nay. Trong đó, chiếc bánh chưng xanh đã trở thành biểu tượng ẩm thực truyền thống mỗi dịp Tết đến xuân về của cả dân tộc và được bạn bè năm châu biết đến.
Bánh chưng – Là món ăn truyền thống không thể thiếu trong mỗi gia đình Việt vào dịp Tết âm lịch. Đối với những người con cháu Lạc Hồng, hình ảnh chiếc bánh chưng còn thể hiện trời đất giao hoà, nói lên ước mơ của người người, nhà nhà có một năm mới sung túc, an lành, hạnh phúc.
1. Nguồn gốc của bánh chưng
Nguồn gốc của bánh chưng gắn liền với truyền thuyết liên quan đến hoàng tử Lang Liêu vào đời vua Hùng thứ 6. Truyền thuyết kể lại rằng, vua Hùng khi đó muốn chọn một người con để truyền ngôi vua. Vua đã họp các người con lại và bảo rằng: “Ai đem lễ vật hợp với ý của ta đến dâng cúng Tiên Vương cho tròn đạo hiếu thì ta sẽ truyền ngôi cho”.
Các vị hoàng tử đua nhau đi tìm các món ngon, vật lạ cao sang để dâng vua với hy vọng sẽ được truyền ngôi. Chỉ có người con thứ mười tám tên là Lang Liêu vì mẹ mất sớm, chàng không có người hướng dẫn nên chàng lo lắng không biết làm thế nào. Một đêm, chàng nằm mơ thấy một vị thần hiển linh chỉ bảo rằng: “Này con, vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con hãy lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng trưng cho Trời và Đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng trưng cho đấng sinh thành”.
Hoàng tử Lang Liêu đã làm theo lời thần chỉ bảo. Chàng lựa những hạt gạo nếp trắng tinh, không sứt mẻ, đem vo sạch rồi lấy lá xanh gói thành hình vuông, bỏ nhân vào giữa rồi mang đi luộc chín, bánh này gọi là bánh chưng. Lang Liêu còn mang gạo nếp mang đi xay thành bột, nhào thành hình tròn tượng trưng cho Trời, gọi là bánh dày. Khi Lang Liêu giải thích về ý nghĩa món bánh chưng, bánh dày trong ngày dâng lễ vật thì vua Hùng rất hài lòng và truyền ngôi cho chàng.
2. Ý nghĩa của bánh chưng:
Bánh chưng – Là món ăn truyền thống không thể thiếu trong mỗi gia đình Việt vào dịp Tết âm lịch. Đối với những người con cháu Lạc Hồng, hình ảnh chiếc bánh chưng thể hiện cho trời đất giao hoà, nói lên ước mơ của người người, nhà nhà có một năm mới sung túc, an lành, hạnh phúc.
Cùng với truyền thuyết xa xưa thời Hùng Vương thứ 6, chiếc bánh chưng gói ghém trong đó cả một nền văn minh công nghiệp lúa nước thời bấy giờ. Thời xa xưa, đời sống của người Việt đã phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Có thể nói, thiên nhiên quyết định đến sự ấm no của con người. Chính vì vậy, bánh chưng đã xuất hiện trong các mâm cúng thần linh, trời đất từ rất lâu. Người dân dùng bánh chưng để cảm ơn trời đất đã cho mưa thuận gió hòa và mang lại mùa màng bội thu trong suốt một năm qua.
Không những vậy, việc bánh chưng xuất hiện trên bàn thờ tổ tiên mỗi dịp Tết đến cũng được xem như một món ăn trang trọng, cao quý để thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn, lòng biết ơn đối với những người đi trước.
3. Cách nấu bánh chưng truyền thống trong ngày Tết
Nguyên liệu làm bánh gồm:
Lá để gói: thường là lá cây dong tươi. Lá dong chọn lá dong rừng bánh tẻ, to bản, đều nhau, không bị rách, màu xanh mướt. Rửa từng lá thật sạch hai mặt và lau thật khô. Rửa càng sạch bánh càng đỡ bị mốc về sau. Trước khi gói, lá dong được người gói bánh dùng dao bài mài thật sắc cắt lột bỏ bớt cuống dọc sống lưng lá để lá bớt cứng, để ráo nước.
Lạt buộc: bánh chưng thường dùng lạt giang được làm từ ống cây giang. Lạt có thể được ngâm nước muối hay hấp cho mềm trước khi gói.
Gạo nếp: Gạo nếp thường dùng gạo thu hoạch vụ mùa. Gạo vụ này có hạt to, tròn, dẻo đều và mới thu hoạch sẽ thơm dẻo hơn các vụ khác.
Nhặt loại bỏ hết những hạt gạo khác, những viên sạn sỏi lẫn vào, vo sạch, ngâm gạo ngập trong nước cùng 0,3% muối trong thời gian khoảng 10-12 giờ tùy loại gạo và tùy thời tiết, sau đó vớt ra để ráo.
Đỗ xanh: đỗ thường được lựa chọn công phu, tốt nhất là loại đỗ trồng ở vùng đồi trung du Việt Nam. Giã nhuyễn, ngâm nước ấm 40° trong 2 giờ cho mềm và nở, đãi bỏ hết vỏ, vớt ra để ráo.
Thịt: thường là thịt lợn, Thịt ba chỉ (ba rọi) với sự kết hợp của mỡ và nạc cho nhân bánh vị béo đậm đà, không khô bã như các loại thịt mông, thịt nạc thăn, đem rửa để ráo, cắt thịt thành từng miếng cỡ từ 2,5 đến 3 cm sau đó ướp với hành tím xắt mỏng, muối tiêu hoặc bột ngọt để khoảng hai giờ cho thịt ngấm.
Gia vị: hạt tiêu dùng để ướp thịt làm nhân. Muối dùng để trộn vào gạo, đỗ xanh và ướp thịt. Đặc biệt thịt ướp không nên dùng nước mắm vì bánh sẽ chóng bị ôi, thiu.
Quy trình gói bánh:
Rải lạt xuống mâm tròn tạo hình chữ thập
Đặt 2 chiếc lá dong lên trên lạt, nằm chồng 1/2 theo chiều dài lá lên nhau, chú ý phải quay mặt trên của 2 lá ra phía ngoài và mặt kém xanh hơn (mặt dưới) vào trong. Lượt sau: 2 lá rải như lượt đầu nhưng vuông góc với lượt đầu, chú ý là lần này lại phải làm ngược lại, quay mặt trên lá (xanh hơn) lên trên, mặt kém xanh hơn, úp xuống dưới.
Gạo nếp, xúc 1 bát đầy đổ vào tâm của hình chữ thập, dùng tay gạt đều, tạo hình vuông mỗi cạnh 20 cm,
Lấy 1 nắm đỗ xanh bóp nhẹ và rải đều vào giữa vuông gạo đến gần hết bìa gạo
Thịt lợn, lấy 1, 2 miếng tùy cỡ đã thái rải đều vào giữa bánh
Lấy tiếp 1 nắm đỗ xanh nữa bóp nhẹ rải đều phủ lên trên thịt
Xúc 1 bát gạo nếp đổ lên trên và phủ khỏa đều, che kín hết thịt và đỗ
Gấp đồng thời 2 lá dong lớp trên vào, vừa gấp vừa vỗ nhẹ để tạo hình khối vuông
Tiếp tục gấp đồng thời 2 lá dong lớp dưới vào như lớp trên, vừa gấp vừa lèn chặt nhẹ tay
Dùng lạt buộc xoắn lại tạo thành hình chữ thập
2 bánh chưng buộc úp vào nhau thành một cặp
Luộc bánh:
Lấy nồi to, dày với dung tích trên 100 lít tùy theo số lượng bánh đã được gói.
Rải cuống lá dong thừa xuống dưới kín đáy nhằm mục đích tránh cho bánh bị cháy. Xếp lần lượt từng lớp bánh lên đến đầy xoong và xen kẽ các cuống lá thừa cho kín nồi.
Đổ ngập nước nồi và đậy vung đun. Người luộc bánh thường canh giờ tính từ thời điểm nước sôi trong nồi và duy trì nước sôi liên tục trong 8 đến 12 giờ. Trong quá trình đun, thỉnh thoảng bổ sung thêm nước nóng để đảm bảo nước luôn ngập bánh (người thực hiện thường đặt sẵn ấm nước bên cạnh bếp đun bánh để tận dụng nhiệt lượng).
Những chiếc bánh ở trên có thể được lật giở để giúp bánh chín đều hơn, tránh tình trạng bị lại gạo sau này. Trong lúc luộc từ 4 đến 5 tiếng, có thể lấy bánh ra, ngâm trong nước lạnh, thay một lượt nước mới khác, bánh sẽ rền, ngon hơn.
Sau khi luộc xong, vớt bánh ra rửa sạch lá trong nước lạnh cho hết nhựa, để ráo. Xếp bánh thành nhiều lớp, dùng vật nặng đè lên để ép bánh cho ra nước, chắc mịn (tục gọi là để cho rền bánh) và phẳng đều trong vài giờ. Hoàn tất công đoạn ép bánh, bánh được treo lên chỗ khô ráo trong nhà để bảo quản.
Bánh chưng Tết xưa và nay
Gói và nấu bánh chưng, ngồi canh nồi bánh chưng trên bếp lửa đã trở thành nét văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam, được lưu truyền từ xa xưa đến tận ngày nay. Mỗi khi Tết đến Xuân về, người người, nhà nhà lại gói bánh chưng ăn Tết, dâng bánh lên bàn thờ tổ tiên.
Ngày xưa, mọi người vẫn thường có thói quen quây quần, sum họp để cùng nhau gói bánh chưng ngày Tết. Thế nhưng, những giây phút cùng nhau ngồi trông bánh đến nay đã không còn. Có lẽ, một phần bởi con người ngày nay đã quá bận rộn với cuộc sống của riêng mình. Và rồi thói quen gói bánh chưng đã dần mai một, thay vào đó, mọi người chuộng việc đi mua bánh đã được gói sẵn hơn, vì điều đó tiện lợi và đỡ mất thời gian.
Ngày nay, cuộc sống đầy đủ, sung túc hơn, không còn cái thời bao cấp, thiếu thốn nên bánh chưng có thể ăn bất cứ lúc nào thèm, nhìn thấy bất cứ khi nào đi chợ, đi siêu thị,… Bánh chưng không còn là món ăn “cao sang” mà chỉ Tết người ta mới được thưởng thức nữa.
Sưu tầm.